Việt Nam sẽ có 300.000ha diện tích mặt nước nuôi biển, kim ngạch xuất khẩu đạt 2 tỷ USD

27/12/2021 | 270 |
0 Đánh giá

Với chiều dài trên 3.200km bờ biển trải dài trên 28 tỉnh, thành phố, Việt Nam được coi là quốc gia có tiềm năng rất lớn về nuôi biển (nuôi trồng thủy sản ven biển, trên biển). Vì thế, trong quyết định mới nhất được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt về Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản trên biển đã đặt mục tiêu đến 2025 đạt 280.000ha.

Tiềm năng nuôi biển của Việt Nam là rất lớn

Việt Nam sẽ có 300.000ha diện tích mặt nước nuôi biển, kim ngạch xuất khẩu đạt 2 tỷ USD - Ảnh 1.

Các lồng nuôi trên biển được doanh nghiệp đầu tư trong những năm gần đây.

Trong Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (được Thủ tướng  phê duyệt tại quyết định 339/QĐ-TTg ngày 11/3/2021 đã nêu rõ quan điểm và mục tiêu, đó là: Phát triển thủy sản thành ngành kinh tế quan trọng của quốc gia. Trong đó, đặt mục tiêu từ nay đến năm 2030, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất thủy sản đạt 3,0 - 4,0%/năm. 

Tổng sản lượng thủy sản sản xuất trong nước đạt 9,8 triệu tấn; trong đó sản lượng nuôi trồng thủy sản 7,0 triệu tấn, sản lượng khai thác thủy sản 2,8 triệu tấn; Giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 14 - 16 tỷ USD; đặc biệt giải quyết việc làm cho trên 3,5 triệu lao động, có thu nhập bình quân đầu người lao động thủy sản tương đương thu nhập bình quân chung lao động cả nước. 

Tiếp nối Chiến lược này, ngày 4/10, Thủ tướng đã có quyết định 1664/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản ven biển đến năm 2030. Theo đó, sẽ đầu tư phát triển nuôi biển thành ngành sản xuất hàng hóa quy mô lớn, có đóng góp quan trọng về sản lượng, giá trị và chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong toàn bộ ngành thủy sản, trong đó lấy doanh nghiệp là lực lượng nòng cốt để đầu tư phát triển nuôi biển quy mô công nghiệp ở vùng biển xa.

Đề án nuôi biển đã đặt ra các mục tiêu cụ thể, đó là: Đến năm 2025, diện tích nuôi biển đạt 280.000ha, thể tích lồng nuôi 10 triệu m3; sản lượng nuôi biển đạt 850.000 tấn. Trong đó, nuôi biển gần bờ: 270.000ha (ven bờ 20.000ha; bãi triều và trong đất liền 250.000ha), thể tích lồng nuôi đạt 8 triệu m3; sản lượng nuôi đạt 750.000 tấn (cá biển: 60.000 tấn, tôm hùm: 3.000 tấn, giáp xác khác: 57.000 tấn, nhuyễn thể: 460.000 tấn và rong tảo biển: 170.000 tấn).

Nuôi biển xa bờ 10.000ha; thể tích lồng nuôi đạt 2 triệu m3; sản lượng đạt 100.000 tấn (cá biển: 60.000 tấn, giáp xác khác: 10.000 tấn, nhuyễn thể: 20.000 tấn và rong tảo biển: 10.000 tấn). Giai đoạn này đặt mục tiêu, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 0,8 - 1 tỷ USD từ nuôi biển.

Đến giai đoạn năm 2030, sẽ phát triển diện tích nuôi biển đạt 300.000ha, thể tích lồng nuôi 12triệu m3; sản lượng nuôi biển đạt 1,45 triệu tấn. Trong đó, giữ nguyên diện tích nuôi biển gần bờ nhưng tăng sản lượng nuôi đạt 1,11 triệu tấn. Đặc biệt, phát triển nuôi biển xa bờ đạt 30.000ha với sản lượng đạt 340.000 tấn. Giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 1,8 - 2 tỷ USD. Về dài hạn, tầm nhìn đến 2045 sẽ đạt kim ngạch xuất khẩu 4 tỷ USD.

Theo đánh giá, Việt Nam có 1 triệu km2 mặt nước biến, song sản lượng thủy sản còn hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu thị trường. Tổng sản lượng mới chỉ đạt 4,56 triệu tấn vào năm 2020. Nghề nuôi biển nước ta vẫn manh mún ở quy mô nhỏ lẻ nên chưa khai thác tiềm năng và lợi thế tự nhiên vốn có.

 

 

 

 

 

 

 

Theo báo cáo của Tổng cục thủy sản, tổng diện tích có tiềm năng nuôi trồng thủy sản của nước ta là 500.000 ha. Trong đó, 270,000 ha là mặt nước xa bờ, 150.000 ha là bãi triều ven biển.

Vì thế, theo ông Nhữ Văn Cẩn- Vụ trưởng vụ nuôi trồng thủy sản (Tổng cục Thủy sản), việc chuyển dịch từ khai thác sang nuôi trồng thủy hải sản là tất yếu, do nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng cùng với sự gia tăng về dân số. Đây cũng là định hướng của Chính phủ đã được đưa vào các dự án phát triển.

Thứ trưởng Bộ NNPTNT Phùng Đức Tiến cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nuôi biển, nuôi trồng thủy sản. Theo ông Tiến, chúng ta đã chuẩn bị sẵn sàng mọi nguồn lực cho việc khai thác, nuôi trồng, và bảo tồn thủy sản, từ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, kế hoạch, các chương trình đề án. Nếu làm đúng tiến độ, ngành thủy sản sẽ có một chiến lược lớn trong việc mở rộng không gian tái cơ cấu.

Trước mắt, Bộ NNPTNT đề nghị các địa phương tập trung đầu tư xây dựng cơ bản, nhất là trang bị các hệ thống giám sát cho cảng cá; tăng cường năng lực và tiến độ các dự án thủy sản có vốn giao về ở địa phương, nhằm triệt để khắc phục những tồn tại để phát triển bền vững, tăng giá trị gia tăng cho ngành.

Việt Nam sẽ có 300.000ha diện tích mặt nước nuôi biển, kim ngạch xuất khẩu đạt 2 tỷ USD - Ảnh 3.

Một lồng nuôi biển quy mô công nghiệp trên Vịnh Vân Phong (Khánh Hóa). Ảnh: KH

Hải Phòng- Quảng Ninh sẽ trở thành trung tâm nuôi biển

Về xây dựng khu vực nuôi biển, Đề án nuôi biển đã được Thủ tướng thông qua nêu rõ với đối tượng nuôi, trồng: Ưu tiên phát triển các đối tượng có thị trường tiêu thụ và lợi thế cạnh trạnh: Nhóm cá biển; nhóm giáp xác; nhóm nhuyễn thể; nhóm rong, tảo biển; sinh vật cảnh và các đối tượng nuôi biển có giá trị kinh tế khác.

Hình thành các vùng nuôi trồng cụ thể. Theo đó, sẽ tiếp tục xây dựng khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh trở thành trung tâm nuôi biển, gắn với trung tâm nghề cá lớn; trọng tâm phát triển nuôi biển ở các tỉnh gắn với bảo tồn biển và du lịch quốc gia. Xây dựng các vùng sản xuất giống nhuyễn thể tập trung, đáp ứng nhu cầu giống nhuyễn thể cho khu vực và cả nước.

Các tỉnh/thành phố từ Thanh Hoá đến Bình Thuận: Phát triển nuôi biển gắn với chế biến thủy sản, dịch vụ hậu cần và hạ tầng phát triển thủy sản. Phát triển nuôi biển ở các tỉnh có điều kiện thuận lợi. Phát triển sản xuất giống cá biển, rong, tảo biển, sinh vật cảnh tập trung. Xây dựng và vận hành mô hình đồng quản lý trong quản lý và khai thác có hiệu quả, bền vững giống tôm hùm.

Các tỉnh/thành phố từ Bà Rịa - Vũng Tàu đến Kiên Giang: Tập trung xây dựng phát triển nuôi biển ở các địa phương có điều kiện; gắn kết hài hòa nuôi biển với dịch vụ, du lịch sinh thái biển, dầu khí, điện gió, giữa phát triển nuôi biển và phát triển công nghiệp chế biến.

Đối với nuôi biển xa bờ, sẽ hình thành các vùng trọng điểm như: Quảng Ninh, Hải Phòng, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cà Mau, Kiên Giang và một số địa phương có điều kiện tự nhiên thuận lợi.

Để phục vụ xây dựng các vùng nuôi biển, Đề án định hướng: Đầu tư xây dựng hạ tầng thiết yếu vào các vùng nuôi biển tập trung bao gồm: Cảng dịch vụ, hạ tầng kỹ thuật và trang thiết bị phục vụ công tác điều hành; hệ thống phao tiêu, đèn báo ranh giới khu vực nuôi biển.

Đầu tư xây dựng hạ tầng thiết yếu cho các vùng sản xuất giống nuôi biển có tiềm năng bao gồm: Hệ thống cấp thoát nước, xử lý nước thải, trạm bơm, đê bao, đường giao thông, hệ thống điện đầu mối, hạ tầng kỹ thuật phục vụ nuôi dưỡng các loài thủy sản trên biển phục vụ sản xuất giống, hạ tầng kỹ thuật và trang thiết bị phục vụ công tác điều hành quản lý.

Việt Nam sẽ có 300.000ha diện tích mặt nước nuôi biển, kim ngạch xuất khẩu đạt 2 tỷ USD - Ảnh 4.

Thu hoạch cá từ nuôi biển ở Vịnh Vân Phong (Khánh Hòa). Ảnh: KH

Thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nuôi biển

Đặc biệt, trong Đề án có đề cập đến việc xây dựng chính sách thu hút các doanh nghiệp đầu tư nuôi biển công nghiệp xa bờ, công nghiệp hỗ trợ, chế biến sản phẩm áp dụng công nghệ tiên tiến để tạo sản phẩm có giá trị gia tăng.

Các chính sách khác, gồm: Xây dựng chính sách hỗ trợ cơ sở nuôi biển xa bờ và cơ sở sản xuất giống nuôi biển; Hỗ trợ kinh phí mua bảo hiểm trong hoạt động thủy sản theo quy định pháp luật; Hỗ trợ nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng công nghệ cao trong nuôi trồng thủy sản trên biển, thu hoạch, bảo quản và chế biến sản phẩm thủy sản.

Hỗ trợ thủ tục để doanh nghiệp đầu tư vào phát triển nuôi biển quy mô lớn, công nghiệp, lâu dài với mục đích phát triển kinh tế; việc cho thuê đất, thuê mặt nước, giao khu vực biển thực hiện theo quy định của pháp luật; Hỗ trợ chuyển đổi diện tích hoạt động của các ngành kinh tế khác sang phát triển nuôi biển (có đề án, phương án đầu tư, tổ chức sản xuất khả thi, hiệu quả).

Về quản lý và tổ chức sản xuất: Tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị sản phẩm, từ con giống, vật tư đầu vào, vật liệu làm lồng, nuôi thương phẩm đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm, trong đó doanh nghiệp thu mua, chế biến, tiêu thụ đóng vai trò hạt nhân liên kết và tổ chức chuỗi sản xuất.

Tổ chức lại các cơ sở nuôi nhỏ lẻ, phân tán theo hình thức quản lý có sự tham gia của cộng đồng, trong đó chú trọng các mô hình Tổ hợp tác, Hợp tác xã nhằm tăng cường giúp đỡ nhau trong sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và chung tay bảo vệ môi trường.

Hình thành các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế đầu tư đồng bộ các khâu vào phát triển nuôi biển xa bờ.

Hình thành kênh cung cấp thông tin thị trường, thông tin về thiên tai, biến đổi khí hậu,... để kịp thời thông tin tới các cơ sở nuôi trồng thủy sản trên biển, nhằm giảm thiểu rủi ro trong quá trình sản xuất.

Xây dựng cơ chế liên kết giữa nuôi biển với hoạt động các ngành kinh tế khác để tận dụng hệ thống cơ sở hạ tầng và hỗ trợ các hoạt động sản xuất trên biển; khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động cùng lúc nhiều lĩnh vực trên biển: Nuôi biển, du lịch, dầu khí, điện gió, vận tải biển,...

Quản lý, giám sát các đơn vị, doanh nghiệp triển khai dự án nuôi trồng thủy sản sử dụng đất, mặt biển đúng mục đích; phối hợp giữa các bộ, ngành trong việc thẩm định cấp đất, mặt biển nuôi trồng thủy sản, nhất là đối với các nhà đầu tư nước ngoài.

Triển khai 3 nhóm dự án đầu tư nuôi biển:

Đề án nuôi biển sẽ tập trung vào 3 nhóm dự án chính, gồm:

1. Nhóm các dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật phục vụ nuôi biển

- Nhóm dự án thí điểm nuôi biển quy mô công nghiệp giai đoạn 2021 - 2025 ở Quảng Ninh, Phú Yên, Ninh Thuận và Kiên Giang.

- Nhóm dự án đầu tư cơ sở hạ tầng, dịch vụ các vùng nuôi biển tập trung xa bờ tại Quảng Ninh, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên và Kiên Giang.

- Nhóm dự án đầu tư cơ sở hạ tầng sản xuất giống phục vụ nuôi biển (giống nhuyễn thể tại Quảng Ninh; giống ngao tại Nam Định, Thái Bình; giống hàu tại Ninh Bình; rong, tảo biển, cá biển, sinh vật cảnh tại Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận; cá biển tại Kiên Giang).

2. Nhóm các dự án khoa học công nghệ phục vụ các khâu trong chuỗi nuôi biển

- Dự án nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới trong nuôi biển xa bờ.

- Dự án nghiên cứu, phát triển giống phục vụ nuôi biển.

- Dự án phát triển trồng rong, tảo biển xuất khẩu đến năm 2030.

3. Nhóm các dự án về quản lý nuôi biển

- Điều tra, đánh giá hiện trạng nuôi biển cả nước và xác định tiềm năng các vùng có khả năng phát triển nuôi biển.

- Dự án quan trắc, cảnh báo môi trường và phòng chống dịch bệnh phục vụ nuôi biển.

- Dự án nâng cao năng lực trong quản lý nuôi biển.


Tin tức liên quan

Bình luận